GS.TS Nguyễn Tài Cẩn là một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng không chỉ với các công trình nghiên cứu về ngữ pháp và lịch sử tiếng Việt mà cả những công trình nghiên cứu về chữ Hán và chữ Nôm được giới chuyên môn đánh giá cao.Nhân dịp đầu xuân mới Mậu Tý - 2008, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 1 công trình nghiên cứu mới của Giáo sư về văn bản Truyện Kiều (*).
VỀ BẢN KIỀU VỪA PHÁT HIỆN ĐƯỢC Ở VINH
Nguyễn Tài Cẩn ( I ) 1/ Một bản Kiều chép tayvừa đượcphát hiệnở Vinh, trong tủ sách một gia đình con cháu dòng họ Tiên Điền .Văn hoá Nghệ An đã xin Bảo tàng Nguyễn Du ở Nghi Xuân cho phép in photocopie và đã có nhã ý gửicho chúng tôi. .Chúng tôi rất xúcđộng và kính xin tỏ lòng thành thực tri ân . Sau đây là vài nhận định sơ bộ của chúng tôi,kính xin báo cáo cùng đông đảo bạn đọcbiết .
2/ Điều đáng tiếc nhất là do có nhiều hoàn cảnh khó khăn trongcác giai đoạn lịch sử vừa qua nên việc bảo quảnđã không giữ nguyênvẹn được 100% toàn bộvăn bản: phần mở đầutừ câu 1 đến câu 904 , cũng như phần cuối từ câu 2813 đến câu kết thúc đều đã bị để mất. Ở phần giữathỉnh thoảng cũng bịrách nát hay khiếm khuyếtmột số đoạn , một số trang , làm cho văn bản lại thiếu thêm khoảnggần 90 câu nữa . Như vậy chúng ta hiện chỉ còn lại trong tay khoảng một nửa của Truyện Kiều mà thôi .
3/ Việc biên tậpbản Kiều này chắc đã được tiến hànhtrong khoảng từ cuối thế kỉ XIX trở về sau, vì người sao chép đãcó đôi chỗkị húy theo thói quen từ đời Thành Thái: như dùng chữ THÌN để thay tên Tự Đức (xin xem câu 981) hay viết chữ CHIẾUthành chữ CHIỂU (xin xem câu 1417).Thỉnh thoảng cũng có hiện tượng chép sót , chép sai câu này chữ nọ, sau phải móc thêm vào bên cạnh., như hai câu 2067, 2068 chẳng hạn . Và tuy đã có người đọc lại, ghi thêm hai chữ PHỤNG DUYỆTvào khoảng giữa nhữngcâu1217--1220 , nhưng vẫn còn có những câu , những chữ bị sót, bị sai hiện vẫn chưa được bổ sung , đính chính , ví dụ hai câu1213 , 1214 .Căn cứ nét chữcó thể phỏng đoán có một người chép chínhnhưng đôi lúc người đó cũng đã để cho người khác chép thay vào một sốcâu. Việc sao chép như vậy là không được thật hoàn mĩvà tiến hành cũng khá chậm .
( II )
4/ Tuy nhiên , những gì may mắn còn giữ lại được vẫn hoàn toàn đáng được coi là một di sản rất quí hiếm . Trước hết , bản tạm gọi là “bản Vinh” nàycũng lưu giữ được rất nhiều nét cổ , không thua gì các bản Duy Minh Thị(DMT/ 1872), Liễu Văn Đường(LVĐ / 1871), Quan Văn Đường (QVĐ /1879) Thịnh Mĩ Đường (TMĐ /1879)v.v. Điều đó thể hiện ra ở 2 điểm sau đây : ---Nó cũng kị húy rất triệt để theo lệnh năm 1803 đầu triều Nguyễn, ví dụ :: *** kiêng tránh tên húy Gia Long : như thayCHỦNG//GIỐNG bằng CHÚNGhoặc KHÉOở câu1194 và ở câu2097 ; ***kiêng tránh tên húy mẹ cả Gia Long :nhưthay LAN bằng HƯƠNG ởcác câu 1471 , 1803 , 1988;
---Nó cũng lưu lại nhiều vết tích kị húy của thời Lê Trịnh , như : ***kị húy chuá Trịnh Bồngbằng cách đổi BỒNG thành BUỒNG ở câu 2627 (xin so với cách viết BUỒNGtrongLNP và cách viết PHÒNG trong các bảnLVĐ, QVĐ,TMĐ ); ***kị húy chúa Trịnh Doanhbằng cách thay bộ MỘC bằng bộ THẢO ở câu 1885( như trong các bản LVĐ,DMT,QVĐ,TMĐ) ; ***tránh xa tênKHOÁI của vuaGia Tông bằng cách thay chữ CỘI/CỖI bằng chữ CỔIởcâu 1322 ( như trong DMT ); ***haytránh xa chữKỲ của vua Thần Tôngbằng cách thay bộ MỘC của chữ CỜ bằng bộ THỦ ởcâu 1473( cũngnhư trongDMT ).
5/ Nhưngđặc điểm đáng lưu ýnhất củabản Vinh này là ở chỗ nó có nhiều nét gần gũi nhất với bản DMT. Có thể nói : trong số các bản Kiều cổ hiện biết ,không một bản nào gần gũi DMT bằng nó hay hơn nó. a)Về mặt từ ngữ , giữa bản Vinh và bản DMT/1872có sự thống nhất khoảnghơn81% dị bản chungtrong lúc giữa bản DMT/ 1872 với các bản miền Bắc chỉ đạt tỷ lệ khoảng60%. Rõ ràng bản Vinh tuy ở miền Bắc nhưng không cùng một nguồn gốc gần với các bản như LVĐ, QVĐ, TMĐ v.v. b) Và ngay trong việc kị húy cũng đã có thể thấy rõ sự gần gũi đó : ---Trong Truyện Kiều có rất nhiều bản cùng kị húy CHỦNG//GIỐNG ; nhưng trong công việc kị húyCHỦNG //GIỐNGchỉ có nó và DMT là hai bản duy nhấtđồng thờisử dụng lối gọi là “gia dạng “:xinxem ở câu 1728! ---Trong việc thay LAN bằng HƯƠNG cũng vậy : ở câu1310 cũng chỉ có nó và DMT là hai bản cùng thống nhất tiến hành thay , tất cả các bản còn lại đều vẫn giữnguyên chữ LAN ! ---Việc kị húychúa Trịnh Bồnglại thêm haidẫn chứng : cách viết chữ BỒNG ở câu2244 ( bỏ bộ THẢOđồng thờithay bộ MỘCbằng bộ THỦ ) cũng nhưcách viết chữ BỒNG//BÒNG ở câu2803 ( gia thêm bộ KHẨU ) hoàn toàn ăn khớp nhau giữa hai bản Vinh và DMT, vàcũngcó sự ăn khớpchỉriêng giữa hai bản ấy với nhau mà thôi . ---Để khỏi dài dòng , có thể kết thúc bằng việc nóithêm về 2 trường hợp KÌ//CỜ ở câu 1473và CỘI//CỔI: ở câu 1322 : chỉ bản Vinh và bản DMT là có chú ý đến việc thay tự dạng này! Tât cả các bản còn lại đều nhất luật giữ nguyên dạngvốn có ở trong các bộtự điển .
6/Việc thêm 2 câu(đưa4 câu lên6 câuhoặc đưa 6 câu lên 8 câu , tùy bản )ở đoạn Sở Khanh mới gặp Kiềutrước nay chúng ta biết cũng mới chỉ qua lờiCụ Nghè Mai kể lại và cũng chỉ mới thấy ở bản DMT.Trong DMT , bốn câu phác thảo đầu tiên là: :
Quế trong trăng , hạnh trên mây Cát lầm ( hay “cát bày “?) nỡ để cho đầy đọa hoa Tiếc điềunhầm chẳng biết ta Vể châu vớt ngọc dễ đà như chơi Sau bạn bè khuyên chữa lại và thêm 2 câu vào đoạn giữa , thành 6 câu như sau: : Giá đành trong nguyệt trên mây Hoa sao hoa khéo giã giày bấy hoa Nổi ganriêng giận trời già Lòng này ai tỏ cho ta hỡi lòng Thuyền quyên ví biết anh hùng Ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi Trong 10 câu ấy có những chỗ đáng ngờ như cách viết chữ HẠNH, chữ GAN, chữ GIÀ , nhưng không một bản nào khác có thể cho thêm thông tin ! Nay hoá ra bản Vinh cũng có đoạn ấy ! Thật là bất ngờ !! Và thế là lại thêm một chứng cớ hùng hồn nữa về sựgần gũi nhau lạ kìgiữahai bản Vinh và DMT. Chúthích: Riêng trong bản Vinh cònthấy có sựsửachữa thêm ở 2câutiếp theo sau đó, so sánh: ---Sơ thảo :Nàng vừa khuya tựa lầu mai Nghe lời ra cũng dường người sắt đanh ---Chữa lại :Song thu đã khép cánh ngoài Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh
7/ Có thể có người ngở rằngbản Vinh chỉ là một bản sao lại từ bản DMT/1872 ! Không đúng đâu vì hai bên có những điểm khác nhau ! a) Vài ví dụ về phương ngữ :Bản gốc DMT làmột bản đãđi ngang qua Huế rồi mới vào Nam Bộ. Bản gốcVinh, trái lại , là một bản gốc đượclưu giữ tại miền Bắc , không phải kinh qua sự sao đi chép lại ở Huế và ở Nam Bộ nhưbản gốc của DMT/1872 .Vì thế : ***Chữ ĐẮNG ở câu 1870 bản Vinh ghi bằng thanh phù ĐẲNGchứ không ghi bằng thanh phùĐÁN/ĐỚN nhưở DMT ; ***Ở câu 1098 chữANH chỉtên chim, bản DMTghi nhầm thành chữOANH ; nhưng bảnVinh khôngnhầm ! ***Ở câu 1734bản Vinh vẫn ghi KHỦNG KHỈNH chứkhông để KHỈNHdiễn biếnthànhKHỈNH>KHIỂNG>KHIỂN> KHUYỂNnhư trong DMT ..
b) Một ví dụ về kị húy : Để chỉ con đường đi , trong khoảng từ câu905 đến câu 2812 bản DMT luôn luôn dùng đúng chữ ĐƯỜNG có bộ THỔ, bản Vinh, trái lại ,trong 60% trường hợp đã bỏ bộ THỔ ! Phảichăng là để tránh xa cái tên húy củaDụ Tông (1705-1729) ?
c) Và một ví dụ nữa về nội dung văn bản :Bản DMT hoàn toàn không có phần chú thích những lời phê như của Vũ Trinh , Nguyễn Lượng, bản Vinh trái lại, ghi đầy chú thích ở rất nhiều trang ! Và có những đoạn chú thíchrất quí vì rất cổ : như ở khoảng các câu1515--1540, có chú thích của Vũ Trinh, vẫn dùng chữHOÀN , chưa thay bằngchữ VIÊN, nghĩa là chú thích trướclệnhkiêng húy năm 1803 . Bản sao chép về sau cũng chỉ dùng lối viết tắtthôi, chứkhôngtheo đúng lệnh. /1 /
d) Sơ bộ kết luận :vớinhững nét riêngbiệt như trên , bản Vinhkhông thể là một bản sao lại từ bản DMT / 1872 . Nó chỉ là một bản có cùngnguồn gốc xa xưavới bản DMT mà thôi!
( III )
8/Cái quí của bản DMT đã được G.S. Hoàng Xuân Hãn phát hiện và hết sức đề cao. Theo G.S. đó là bản gia bảo của dòng họ Tiên Điền vì có gia húy : dùng TRƯỢNG NGHĨA thay cho TRỌNGNGHĨA để né tránh tên húy của ông chú Nguyễn Trọng. Đó lại là bản cổ nhất : ---vì còn nhiều chỗ theo sát truyện Tàu ,chưa kịp nhuận sắc lại ; ---vì cácvết tích né tránh tên vua Lêchúa Trịnh nhiều hơn các bản khác; ---vì khi Gia Long lên , rất sợ Gia Long nên nó áp dụng triệt để nhất lệnh kị húy năm 1803 . ---và vì về từ ngữ , nócũng còn lưu lại nhiều cách nói rất xưa , rất đặc trưng cho hai vùng quê Nghệ Tĩnh và Thái Bình. Nhưng nó cũng cónhiều nhược điểm : nó đã phải đi từBắc vào Nam , bị chép đi chép lại nhiều lần ở Huế, ở Gia Định . Nó lại sai rất nhiều chỗ vì văn bản Nômmà lạigiao cho thợ Trung Quốc ở Quảng Đông in thì làm sao tránh được điều đó . Vậy nay có thêm được một bản cùng gốc với DMT mà lại có lai lịch khácDMTthì còn có gì quý bằng ! Không nêncó ảo tưởng ngây thơ làở bản Vinh cái gì cũng hay cũng đúng cả ! Nó tránh được những cái nhược ởnhững điểm này của DMT thì nó lại có thể đẻ ra những cái sai kiaở những điểm khác. Và bên cạnh rất nhiều chỗ cùng đúng ,cùng haylại còn có cả những điểmcùng sai như nhau ! ( sai do cùng chấp nhận một lối ghi Nôm không chuẩn mực lưu lại từ xưa , hay sai do sao lại một cách máy móc lối viết của bản cũ ...) .Nhưng dầu sao , nay có thêm một bản nữa , cùng gốc với DMT,để cân nhắc, so sánh thì cũng hơn hẳn cái thời chỉ có độc một mình bản in năm 1872 ! Cóthể nói cái quý đầu tiên của bản Vinh lànó đã góp phần vừa có chỗ bổ sung , uốn nắnvừa có chỗủng hộ ,củng cốvừa có chổ đặt ra những điểm nghi vấn cho người nghiên cứu, làm cho cái giá trịkhoa học của bản DMT đượcvững chắc hơn thêmmột bước !
9/ Hơn nữa chúng tôi cũng đã từng cố gắng tìm hiểu vấn đề tác độngcủa bà con , bạn bè,cũng nhưcủa các vị đã từng tham gia đính ngoa, nhuận sắc , khắc in,sao chép ......vào bản nguyên tác của nhà thơ , đưa đến 3 loại dị bảncặp đôi giữa chỉ 2 miền , với số lượng như sau : a) 359dị bảncó chung giữa DMT và miền Bắc, khác hẳn Huế ; b) 106 dị bảncó chung giữaBắc và Huế, khác hẳn DMT ; c) và 101 dị bản có chung giữa Huế và DMT, khác hẳn các bản miền Bắc . Đi theo hướng này chúng ta thấy : tuy đa số dị bản thườnggiống nhau giữa bản Vinh và bản DMT / 82% ởtrường hợp a), 66%ởb) và 77% ở c) / nhưngcũng có một thiểu số dị bản khác nhau giữa hai bên. : một bên sai một bên đúng ; một bên dở một bên hayhoặc cả hai bên đều vào loạigần như tương đươngnhau , người đánh giá thế này, người đánh giá thế nọ . Xin thử đi vào các dị bản hai bên khác nhauđể minh họa sự đóng góp của bản Vinh.
10/Trong200 dị bản hiện cóthuộctrường hợp a)có 18 %ở bản Vinh khác bản DMT. Trong số đó có thể tìm ra những ví dụ khá thú vị , như : CâuỞ DMT và các bản miền BắcỞ các bản Huế ---1005 : BỒNG LAI cách mấy nắng mưaSÂN LAI ---1581 :Có khi vui chuyện mua cười 1582 : Tiểu thư lại giở những ĐIỀU đâu đâuLỜI ---2669 :Giữa vòng nước dẫy sóng dồi 2670 : Trước hàm rồng cá gieo MÌNHthủy tinh (//vắng tanh )MỒI ---1064 : Trông CHÀNG ,NÀNG cũng ra tình đeo đaiTrông NÀNG, CHÀNGcũng ---1358: Đành thân phận thiếp , NGHĨ danh giá chàngNGẠI ---1760 :NO(//Nỗi) lòngNO những bàn hoàn niềm tâyLUỐNGnhững ---2118 : Phải cung rày đã sợ BÀN MÁY CUNGsợ LÀN CÂY CONG ---2663 : Vậy nên những TÍNH thong dongCHỐN 2664 : Ởkhông yên ổn ngồi không vũng vàng Rõ ràng 3dị bản đầuđã đượcđính ngoaở các bản Huế vì sai điển cốhoặc sai vần. Năm dị bản sau cũng đã đượcnhuận sắc cho hay hơn. Chẳng hạn chỉ nhuận sắc TRÔNG CHÀNG ,NÀNG CŨNG...thành TRÔNG NÀNG , CHÀNGCŨNG...là tỏ ra thoát được ảnh hưởng củaTruyện Tàu , nâng cao được uy tín của Kiều , vạch mặt được tính trai lơ của Sở Khanh . Nhưng những sự cải tiến về nghệ thuật đótrước kia chúng tôi đều qui công cho các bản Huế : hoặc cụ Nguyễn Du thời vào Huế hoặc bạn bè Cụ ở Huế đã chữa lại. Nay mở bản Vinh ra thì đã có đủ tất cả các dị bản đúng vàhay đó(trừSÂN LAI đang còn chép ở dạngĐÌNH LAIđọc theo nghĩa!). Hóa ranhờ bản Vinh nay chúng ta mới biết : chính nhà thơ đã cung cấpsẵn vănbản chính xácchứ không phảilúc đầu sai , sau Cụ hay bạn bè Cụmớiđính ngoa, nhuận sắc! Và Cụ đãcó văn bản chính xácđó từrất sớm , hồi còn ở quê ! Các bản Huế chỉ có công chép lại mà thôi. 11/ Trong 72dị bản hiện có, thuộc trường hợp b), có 34% ở bản Vinh khác DMT . Trong số đó có thể đem raso sánh :
CâuỞ các bản miền Bắc và HuếỞ bản DMT / 1872
---1310 Thang lan rủ bức trướng hồng TẨM HOASẠCH HOA ---1479Tin nhà ngày một VẮNG TINTHẦM TIN ---1593NONQUÊ thuần vược bén mùiNON XUÂN ---1657GIÓ CAO ngọn lử càng caoGIÓ TUNG ---1798Lấy câu vận mệnh KHUÂY DẦN nhớ thươngCỔI DẦN ---1991Thiền tràCẠN nước (//chén) hồng maiRÓT NƯỚC ---2037Xăm xămgõ MÉ CỬA NGOÀIGÕ CỬA BƯỚC VÀO 2038 Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong
Chỉ đọc qua ai cũng thấy ngay rằngcác dị bảncủa phíaDMT đều không hay , thậm chí ở câu cuối còn thất vận . Trước đây chúng tôi dều đànhphải cố gắng tìm cách xử lí : hoặc cho làbịchép sai ,phải đính ngoa , hoặc tìm lí do này lí do nọ đểgượng gạo chấp nhận . Nay bản Vinh ủng hộ phía các bản miền Bắc và Huế !Vậy là rõ :các dị bản ở DMT /1872 không phải là sản phẩm của cụ Nguyễn Du ! Đó chỉ là sản phẩm của sự tam sao thất bản trên đường truyền bá từ miền Bắc vào miền Nam mà thôi !
12/ Trong 56 dị bản hiện có , thuộctrường hợpc) , cũng có thể dẫn nhữngcâu như :
CâuỞHuếvà DMT / 1872Ở các bản miền Bắc
---1148 : CHÚT lòng trinh bạch từSAU CŨNGCHỪAXÓT... LÂU ĐẾN GIỜ.(LVĐ). ---1258 : Trân cam ai kẻ đỡ thay VIỆC mìnhMỘT mình ---1294 : Ngày xuân lắm lúc QUÊN về với xuânĐI về ---1391 : Quyết NGAY biện bạch một bềNGHE ---1509 : Đôi ta chút nghĩaĐÈO BÒNGBÈOBỒNG ---1578 : Nào ai có khảo mà mình ĐÃ xưngLẠI ---1655 : Tớ thầy CHẠYthẳng đến nơiNHẢY ---1786 : Nước BÈO để chữ tương phùng kiếp sauNước NON ---2018 :RÀO cây lâu cũng có ngày bẻ hoaTRÈO Chúng tôi vừa gắng chọn ra một số câutrong đó bản Vinh ăn khớp với các dị bản của phía bên các bản miền Bắc.Chọn để tiến hành một sự so sánh cần thiết . Nếuhai trường hợp trên kia ,chúng ta thấy cột bên phải : ---ở a) cho chúng tanhững dị bản đúng hơnhẳn, hay hơn hẳnvì đó là dị bản của cụ Nguyễn Du ; ---và ở b) cho chúng ta những dị bản kém hơn vì là sản phẩm của các lần sao đi chép lại ; ---thì ở đâykhông có sự rõ ràng như vậy : sự hơn kém giữa các dị bản tuy có , nhưng có khi không thật dễ dàng đoán định được ngay , một cách hoàn toàn nhất trí. Ngay sau khi biết bản Vinh cũng chépTRÈO , NƯỚC NON ,NHẢY, LẠI...rồi , chúng tavẫn không dám đánh giá ngay một cách quá thấp phía RÀO, NƯỚC BÈO, CHẠY, ĐÃv.v...! Ví dụ ở câu 1786 , ở sau đã nóiTƯƠNG PHÙNG thì ở trước phải nói NƯỚC BÈO mới đúng với điển cố BÌNH THỦY TƯƠNG PHÙNG của Vương Bột !Vậy có lẽ đây là trường hợp những dị bản đã đòi hỏinhà thơ lắmkhi phải suy đi nghĩlại nhiều lần trước khi quyết định. Theo thống kê , kết quả cuối cùnglà : bản Vinh đã ủng hộ 77 % phía DMT và Huế , chỉ 23% nghiêng về phía các bản miền Bắc .Phía 23 % này là phía bản Vinh cho chúng ta biết những dị bảnđãđược đem ra cân nhắc nhiều, chứ cũng vị tấtđã được nhà thơ ưng ý hẳn .Chúng ta nên tìm hiểu tiếp đểphỏng đoán kết quả cuối cùng trong việc chọn lựa
(IV ).
12/ Đến đây chúng ta mới tạm giải quyết được một vấn đề : cố gắng phân tích để thấy rõ được phần nào sự đóng góp của bản Vinh .Nhưng thấy được cái qúi của nó chưa phải là đã hiểu biết về nó một cách thật toàn diện. Nhiều vấn đề phải thú thật là đang treo. Xin dẫn chẳng hạn một ví dụ thôi ,để bạn đọc cùng suy nghĩ : đằng sau lưng bản Vinh hiện có là một bản gốc rất cổ , ai là người chép ra và biên tập bản gốc đó ?Chúng tôi xin thử đoán liều để đưa ra một sự gợi ý : phải chăng đó là cụ Nguyễn Thiện? a)Bởi vìvề mặt hoàn cảnh chúng ta thấy : --- Người có thể tiếp cận được với bản Kiều gia bảo của dòng họ thì đó phải là một người của dòng họ mà lại rất thân với tác giả :Nguyễn Thiện là cháu gọi Nguyễn Du bằng chú,và tuổi lại cũngsuýt soát gần như Nguyễn Du.! ---Người chịu khó bỏ công sứcsao chép Kiều ,chú thích về Kiều phải là một người đang mê sayđọc Kiều , tìm hiểu Kiều : thìNguyễn Thiện lúc đó cũng đang cần rút kinh nghiệm Kiều ,để nhuận sắc Hoa Tiên ! .b)Về mặt quan hệ giữa bản Kiều Vinh và bản HOATIÊN NHUẬN CHÍNH innăm 1875 chúng talại thấy : ---Các vị chép Kiều thường không chú ý kiêng né tênhúycủavuaDụ Tông(1705-1729), riêng trong bản Kiều tìm được ở Vinh --không hiểu tại sao -- 60% chữ Đườnglại đều bỏ bộ THỔ để tránh xa chữ húyTHỊ+ ĐƯỜNG của vua ! Vàtrong bản HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH in năm 1875 của Nguyễn Thiện , --phải chăng vì thế----75% chữ ĐƯỜNG ( 15 trên tổng số 20 trường hợp ) lại cũng viết không có bộ THỔ ! ---Cách dùng từ ngữ cũng có điểm tương tự giữa 2 bên :bản Kiều Vinh đã chữa ĐỊNH LÒNG của DMT ở câu1496 thành ĐỊNH TÌNHthì ở HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH (1875) ĐỊNH TÌNH lạixuất hiện trở lại ở câu625 ; c) Còn về mối quan hệgiữa bản 1872 của DMTvà bản 1875 của Nguyễn Thiện thìtình hình cũng được minh họa bằngmột số ví dụ, như : ---Trong tất cả các bản Kiều cổ , bản DMT / 1872 là bản duy nhất không mở đầu bằng TÀI,MỆNH mà mở đầu bằng TÀI , SẮC :thìtrong HOA TIÊN NHUẬN CHÍNH , Nguyễn Thiện cũng thay câu của Nguyễn Huy Tự bằng câu: Trăm năm một sợi chỉ hồng Đặt người TÀI SẮC vào trong khuôn trời ---Thêm vào đó, trong 9 bảnKiềuthế kỉXIX , cũng chỉ có bản DMT dùng2 chữ DIỄU QUANH (ở câu274 ) , và 2 chữ đó lạiđược Nguyễn Thiệndùng lại , khi nhuận sắc Nguyễn Huy Tự : xin xem câu 429: DIỄU QUANH lũng hỏi thung tìm ! Nhữngmối liên quan giữa bản DMT , bản Kiều Vinh , bản Hoa Tiênnhuận chính và vai trò của Nguyễn Thiệnnhư vừa nêu trên có lẽ không phải là ngẫu nhiên , nhưngdầu sao chúng ta vẫn cần phải thận trọng, không thể dừng ở bước phỏng đoán! Nhất thiết phải điều tratiếp!Rất mong gia đình đã phát hiện ra bản Kiều Vinhgắng tìm hiểu trong các chi phái của dòng họ ,xem thửcó thể góp phần soi sáng thêmđược phần nào vào vấn đề này hay không ?
1/ Phần chú thích trong bản Vinh có những chỗ đại để giống như ở LNP hoặc ở KOM nhưng cũng có những chỗ hiện chỉ thấy nó có . Vậy đó là một phần chú thích có tính độc lập riêng (*) Bài đã đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An
Khoa Ngôn ngữ học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Địa chỉ: Tầng 3 (P.301-307) Nhà A - 336 Nguyễn Trãi - Thanh Xuân - Hà Nội
Điện thoại: (84-4) 3 5588 603 - Fax: (84-4) 3 8587 202
Email: ngonnguhoc@ussh.edu.vn